PBC là nhà văn lỗi lạc, tài hoa, hơn thế nữa thơ văn pbc còn là thành tựu rực rỡ bậc nhất của loại thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng VN đầu thế kỷ XX.Bài thơ “Lưu…” là bài thơ hay của ông vừa trữ tình vừa giàu tính tuyên truyền, trong đó nổi bật là hình tượng nhân vật trữ tình- 1 người anh hùng tràn đầy cái tôi cá nhân cảu mình
Bài thơ này ra đời trong những năm đầu thế kỷ XX, đất nước ta đã mất chủ quyền, hoàn toàn lọt vào tay thực dân Pháp. Tiếng trống, tiếng mõ Cần Vương đã tắt, báo hiệu sự bế tắc của con đường cứu nước theo tư tưởng phong kiến do các sĩ phu lãnh đạo. Phong tròa Đông Du ra đời cùng với sự lahx đạo của PBC nhóm lên bao hi vọng. Bài thơ “Lưu…” được viết ra trong bưac cơm ngày tết mà PBC tổ chức tại nhà mình để chia tay các đôngh chí trước lúc lên đường. Về sau, trên “Binh sự tạp chí” ( Hnagf châu, trung Quốc) số 34 (2-1917), PBC cho đăng bài thơ này dưới nhan đề “Đông du kí chư đồng chí”.Bài thơ thể hiện sinh động tư thế, ý nghiã, cái tôi của nhân vật trữ tình – 1 cái tôi luôn thao thức về sự tồn vong của giống nòi, dân tộc
Bốn câu thơ đầu của bài thơ nhắc lại quan niệm về ‘ chí làm trai’ của các nhà nho nho xưa đã từng khẳng đinh. Theo đó, khát vọng làm những việc lớn của n.v trữ tình cũng được thể hiện 1 cách sâu sắc. Hai câu đề nói rõ nhận thức của nhà thơ về chí làm trai - một nhận thức làm cơ sở cho mọi hành động:
‘ Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời.’
tuy chí làm trai đã được các nahf thơ nói nhiều nhưng không vì thế mà ở bài thơ này nó mất đi sự mới lạ , thôi thúc. Nó chính là điều nung nấu bao năm của tác giả bây giờ được nói ra, trước hết như lời tự vấn, tự nhủ, tự mình nâng cao tinh thần mình: lẽ nào để trời đất tự xoay vần tới đâu thì tới mà mình là kẻ đứng ngoài vô can. Đây là một tư tưởng táo bạo, cách mạng đối với người xuất thân từ cửa Khổng sân Trình trong thời điểm ấy. Hai từ hi kì ( hiếm, lạ, khác thường) ở nguyên tác cần được hiểu như nhừng từ nói về tính chất lớn lao, trognj đại, kì vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Nhưng từ “ lạ” trong bản dịch thơ rõ ràng chưa thể hiện được hết ý tư của 2 từ “ hi kì” trong nguyên tác. Với hai câu thực, nhà thơ tiếp tục khẳng định tư thế của kẻ làm trai giữa vũ trụ và trong cuộc đời:
’Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai ?’
Ý thức về cái "tôi" đã hiện lên rõ ràng, không rụt rè, dè dặt.Câu thứ 3 k chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của n.v trữ tình ở trên đời mà còn hàm chứa 1 tâm niệm : ta hiệ diên k phỉa như 1 sự kiện ngẫu nhiên, vô ích và vì vậy ta phải làm được 1 việc j đó có ý nghĩa cho đời. câu thư thứ 4 có tài kiệu dichj nghĩa: Còn như chuyện gạn năm sau thì có người sắp tới. có thể nói rõ ý hơn là : Ngàn năm sau lẽ nào chẳng có người nối tiếp công việc của người trước?. Như vậy , 2 câu thực cho thấy rõ cái tôi đày trách nhiệm của n.v trữ tình: thấy việc k thể k làm, k ỷ lại cho ai.Hơn thế cái tôi ấy thấy rõ lịch sử là 1 dòng chảy liên tục , có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ
Bốn câu thơ cuối của bài thơ là thái độ của nhân vật trữ tình đối với nền học vấn cũ là thái đọ chối bỏ tinh thần cách mạng và khát khao ra đi, khát khao lập công sôi trào , đầy dũng khí;
Non sông đã chết sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài.’
Đến hai câu này, ta cũng thấy nổi lên ý chí làm trai với khát vọng lưu danh theo một nội dung mới, đó là ý thức về non sông đã mất chủ quyền, "hiền thánh" thần tượng một thuở giờ còn đâu nữa. Hai câu thơ nhận định thực trạng lịch sử bằng một cái nhìn dứt khoát. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" - đây quả là một câu thơ thể hiện khí thế sục sôi của Phan Bội Châu, cho thấy cái nhìn tỉnh táo của ông về thời cuộc.PBC nhìn thấy sự vô ích của việc học, kais kiểu học cũ trơcs những đòi hỏi của đát nước, thời đại.Ông thực sự dè biu kiểu ứng xử “ nhắm mắt làm ngơ” trước thực tại.
Hai câu kết của bài thơ có cái khí thế gân guốc và ý thức được sự ra đi một cách sôi trào, đầy dũng khí:
Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.’
Vượt biển Đông" là cách nói có vẻ khoa trương nhưng đó là hành động sắp diễn ra. Người ra đi trong niềm hứng khởi vô biên "muôn trùng sóng bạc" tiễn chân như một yếu tố kích thích. Đó chính là bạn đồng hành trong cuộc ra đi hùng tráng này, tìm ra con đường đi mới cho lịch sưt đất nước, tìm ra trương hoạt động mới để thân nam nhi được thỏa chí bình sinh. Taamm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào 1 trường hoạt động mới mẻ , sôi dộng , bay lên làm quấy sóng đại dương, hay bay lên cũng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng.
Bìa thơ được viết theo bút pháp ước lệ, thcisch sự phóng đại của thơ tỏ chí cổ điển.Nỗi đau niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng của nhân vật trữ tình thc]j sự đã thổi hồn vào từng câu chữ, hình ảnh, có sức lay động thấm thía.Hình tượng nhân vật được khắc họa độc đáo, khác hạo và khẳng định hình tượng anh hùng tràn đầy ý thức về cái tôi của mình, những tư tưởng mới, mạng tính cách mạng về sự nghiệp cưu nước.Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên đường. Nó hoàn toàn tươgn xứng với tầm vóc của 1 con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó.